Bổ sung Omega-3 cho phụ nữ có thai và cho con bú trở nên phổ biến khi những vai trò của Omega-3 cho sự phát triển của thai nhi và trẻ trở nên rõ ràng.
Omega-3 là chất béo không bão hòa đa ( polyunsaturated fatty acids- PUFAs) thiết yếu mà cơ thể không thể tự tổng hợp được. Các acid béo này, đặc biệt là DHA và EPA liên quan đến sức khỏe con người trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời, từ sự phát triển của bào thai đến quá trình lão hóa sinh lý.
Sự đầy đủ của các Omega-3 chuỗi dài như DHA và EPA đặc biệt quan trọng đến quá trình tạo myelin của tế bào thần kinh và phát triển thị lực trong quá trình mang thai và chức năng não bộ, nhận thức của trẻ sau này.
Do đó, phụ nữ có thai và cho con bú cần chú ý đảm bảo đủ lượng Omega-3 cần thiết và bổ sung đúng cách.
1. Omega-3 là gì?
Omega-3 là nhóm chất béo không bão hòa chứa nhiều nối đôi (polyunsaturated fatty acids- PUFAs).
Omega-3 có ở cả động vật và thực vật tồn tại ở 3 dạng chính là: DHA (acid docosahexaenoic), EPA (acid eicosapentaenoic), ALA (acid alpha linolenic).
- Trong đó DHA và EPA là 2 omega-3 chuỗi dài, có nhiều trong dầu cá và tảo.
- ALA là omega-3 chuỗi ngắn, có nhiều ở thực vật và khi đi vào trong cơ thể được chuyển hóa thành DHA với một tỷ lệ rất nhỏ (0,5-5%), tỷ lệ này tăng lên ở phụ nữ có thai được lý giải bởi nhu cầu DHA trong thai kì tăng lên.
Các dạng Omega-3 có công thức khác nhau và dễ bị nhầm lẫn, do đó các mẹ cần đọc kĩ hàm lượng dầu cá và hàm lượng từng loại Omega-3 trên bao bì.
2 loại Omega-3 được chú ý bổ sung là DHA và EPA có nguồn gốc chủ yếu từ cá, dầu tảo, dầu nhuyễn thể.
2. Vai trò của Omega-3 trong giai đoạn mang thai và cho con bú
-
Giảm nguy cơ sinh non:
Sinh non (trẻ sinh trước 37 tuần thai) là nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật hoặc tử vong trong năm năm đầu đời.
Cá và dầu cá chứa omega-3 chuỗi dài (đặc biệt là DHA và EPA) được nhận thấy là có liên quan đến việc mang thai lâu hơn. Vì vậy, người ta cho rằng bổ sung omega-3 chuỗi dài trong thai kỳ có thể làm giảm số trẻ sinh non và có thể cải thiện kết quả cho trẻ em và bà mẹ. Các bằng chứng chất lượng cao cho thấy tỷ lệ sinh non dưới 37 tuần và sinh non sớm dưới 34 tuần ở những người phụ nữ được nhận DHA và EPA so với phụ nữ không bổ sung.
Từ đó, đáp ứng đủ Omega-3 cho phụ nữ có thai có thể làm giảm nguy cơ tử vong chu sinh và cân nặng sơ sinh thấp.
-
Phát triển nhận thức ở trẻ trong tương lai:
Trong quá trình phát triển của bào thai và trẻ sơ sinh, màng võng mạc và chất xám của não trở nên giàu DHA.
Trong não, DHA đóng nhiều vai trò quan trọng, bao gồm truyền tín hiệu tế bào, điều hòa biểu hiện gen và dẫn truyền thần kinh.
Trong 3 tháng cuối thai kì, DHA tích lũy có chọn lọc trong não với tỷ lệ cao hơn các axit béo khác. Sự tích lũy DHA này tiếp tục với tỷ lệ cao cho đến khi 2 tuổi.
Hai năm đầu đời tính từ khi thai kì bắt đầu là giai đoạn phát triển thần kinh thiết yếu của trẻ.
Lợi ích của việc bổ sung axit béo omega-3 trong thời kỳ mang thai đã được ghi nhận rõ ràng ở trẻ sơ sinh và sự phát triển của trẻ trong tương lai.
Một số nghiên cứu bổ sung DHA trong giai đoạn thai kì cho thấy cải thiện khả năng giải quyết vấn đề, phối hợp tay và mắt ở trẻ, mức độ chú ý cao hơn so với nhóm không được bổ sung.
-
Giảm nguy cơ rối loạn tâm thần ở trẻ trong tương lai:
Sự thiếu hụt Omega-3 đã được báo cáo ở nhiều loại rối loạn tâm thần, bao gồm rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), trầm cảm, tâm thần phân liệt (SCZ) và Rối loạn phổ tự kỉ (ASD).
Giảm lượng omega-3 đầu đời có thể gây ra các bất thường tâm thần riêng biệt trong giai đoạn thanh thiếu niên, biểu hiện như rối loạn giao tiếp, hành vi và trí nhớ. Omega-3 chuỗi dài rất cần thiết để ngăn ngừa các rối loạn hành vi và thoái hóa thần kinh sau này trong cuộc sống.
Sự thiếu hụt DHA trong thời kỳ chu sinh được chứng minh là có liên quan đến việc giảm hình thành thần kinh và chậm di chuyển tế bào thần kinh. Trên thực tế, phụ nữ có lượng Omega-3 hấp thụ cao hơn trước và trong khi mang thai giảm nguy cơ sinh con bị tự kỉ so với những người có lượng Omega-3 thấp hơn.
Omega-3 chuỗi dài (DHA và EPA) được khuyến khích tiêu thụ trong tuần cuối của thai kỳ và tháng đầu tiên sau khi sinh để phát triển trí não; bổ sung omega-3, đặc biệt là trong thời kỳ mang thai và cho con bú, có thể giúp ngăn ngừa tự kỉ ở trẻ em có nguy cơ mắc bệnh.
3. Chú ý khi bổ sung Omega-3 cho phụ nữ có thai và cho con bú
3.1. Bổ sung Omega-3 cho phụ nữ có thai và cho con bú qua đâu?
Tất cả các khuyến nghị đều cho rằng tiêu thụ Omega-3 từ chế độ ăn uống các thực phẩm giàu Omega-3 hàng ngày cần được ưu tiên. Bổ sung dinh dưỡng từ các viên uống Omega-3 là một trong những nguồn được đề xuất để đạt được mục tiêu này.
Cần lưu ý rằng, DHA và EPA có nhiều trong các loại cá béo, hải sản từ biển như cá hồi, cá trích, cá ngừ,… và tảo biển. Các loại cá nước ngọt sẽ có hàm lượng DHA/EPA thấp hơn.
Mặc dù chế độ ăn nhiều cá cũng là nguồn cung cấp DHA/EPA, nhưng hàm lượng chất gây ô nhiễm tiềm tàng như thủy ngân vẫn là vấn đề cần quan tâm. Vì vậy, cần chọn các sản phẩm bổ sung có chất lượng được xử lý phù hợp để tránh tạp chất và chất gây ô nhiễm.
3.2. Nhu cầu khuyến nghị Omega-3 cho phụ nữ có thai và cho con bú là bao nhiêu?
Theo khuyến nghị chung của Hiệp hội Y học Chu sinh Thế giới, Học viện Dinh dưỡng Sớm và Quỹ Sức khỏe Trẻ em, mức tiêu thụ DHA của bà mẹ khi mang thai và cho con bú không được thấp hơn 200 mg/ngày. Việc sử dụng từ 200 mg đến 300 mg/ngày DHA cho nhóm đối tượng này đã được Viện Y tế Quốc gia và Hiệp hội Quốc tế về Nghiên cứu Axit Béo và Lipid, cùng các tổ chức chuyên môn khác, xác nhận.
Hướng dẫn chế độ ăn uống cho người Mỹ giai đoạn 2015–2020 khuyến nghị tiêu thụ khoảng 8 ounce (tương đương khoảng 227g) mỗi tuần nhiều loại hải sản cho người dân nói chung, dự kiến sẽ cung cấp lượng tiêu thụ trung bình hàng ngày khoảng 250 mg EPA và DHA.
Nếu trong thai kì và trong thai kì không thể ăn đủ số lượng cá trong khẩu phần ăn hoặc bị dị ứng hải sản cần cân nhắc bổ sung dạng viên uống.
3.3. Lựa chọn chế phẩm bổ sung Omega-3 an toàn cho phụ nữ có thai và cho con bú
Các sản phẩm dầu cá chứa Omega-3 không yêu cầu thử nghiệm lâm sàng hoặc sản xuất nghiêm ngặt như các chế phẩm kê đơn và không kê đơn. Điều này đã dẫn đến mối lo ngại về hàm lượng dầu cá được quảng cáo và tính toàn vẹn hóa học của dầu có trong các sản phẩm được sản xuất này.
Người ta nhận thấy rằng trong trong dầu cá bổ sung có thể có rất nhiều loại dầu ngoài Omega-3 có thể không tốt cho sức khỏe. Ít nhất 30 các acid béo khác nhau trong dầu cá bổ sung hàng đầu đã được xác định và điều này bao gồm nhiều axit béo bão hòa chuỗi trung bình và dài khác nhau, có hàm lượng calo cao và không được khuyến nghị cho những bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao.
Các sản phẩm oxy hóa sơ cấp và thứ cấp cũng được đo lường trong dầu cá hàng đầu (theo doanh số). Tất cả dầu cá đều có hàm lượng các sản phẩm cấu thành bị oxy hóa vượt quá mức được Hội đồng Dinh dưỡng Trách nhiệm Hoa Kỳ (US Council for Responsible Nutrition) coi là có thể chấp nhận được đối với con người.
Ngược lại, sản phẩm kê đơn Omega-3 có hàm lượng không đáng kể các sản phẩm oxy hóa hoặc các loại dầu không tốt cho sức khỏe khác (ví dụ: chất béo bão hòa).
Phần lớn Omega-3 và các axit béo khác trong dầu cá thông thường thu được trong quá trình tách protein từ cá biển có dầu trong quá trình sản xuất công nghiệp.
Đặc biệt, các Omega-3 được phân lập trong quy trình chiết xuất này rất dễ bị biến đổi do oxy hóa vì có nhiều liên kết đôi không bão hòa liên hợp. Việc tách mô cá và chiết xuất dầu như vậy cũng liên quan đến việc tiếp xúc với nhiệt độ rất cao.
Ngoài ra còn có sự tiếp xúc với ánh sáng và các chất gây ô nhiễm, dẫn đến biển đổi oxy hóa đáng kể đối với Omega-3 và các acid béo chuỗi dài không bão hòa khác được sử dụng trong các sản phẩm này.
Trong các thí nghiệm có kiểm soát, sự biến đổi oxy hóa như vậy của các axit béo này dẫn đến mất gần như toàn bộ chức năng chống oxy hóa và các đặc tính sinh học khác liên quan đến tính an toàn và cơ chế hoạt động của nó.
Do đó, mẹ bầu nên chọn những sản phẩm bổ sung Omega-3 chính hãng, được cấp phép sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú, từ các thương hiệu lớn, sản xuất từ các nhà máy đảm bảo các tiêu chuẩn sản xuất để hạn chế nguy cơ dầu cá bị biến chất.
Tham khảo dòng sản phẩm dầu cá Omega-3 1000mg đạt chuẩn chất lượng châu Âu, với hàm lượng cao vượt trội và an toàn cho cả phụ nữ có thai và cho con bú. Ngoài ra còn bổ sung vitamin E hỗ trợ chống oxy hoá và bảo vệ cấu trúc của Omega-3 trong dầu cá.
3.4. Bổ sung Omega-3 cho phụ nữ có thai và cho con bú từ viên uống có thể bị quá liều không?
Các Cơ quan quản lý Dược phẩm Hoa Kỳ và Cơ quan An toàn Thực phẩm châu Âu đều cho rằng Omega-3 là liệu pháp can thiệp bổ sung có độ an toàn cao, có thể lên tới 3500-4000 mg/ngày, cho cả phụ nữ mang thai và cho con bú.
Liều giới hạn an toàn đang được khuyến nghị là 5000 mg/ngày bao gồm tổng EPA+ DHA.
3.5. Nên uống Omega-3 vào thời điểm nào trong ngày?
Phụ nữ có thai và cho con bú cần lưu ý thời điểm uống Omega-3 để hấp thu Omega-3 được tối ưu. Nên uống Omega-3 trong hoặc ngay sau bữa ăn vì Omega-3 được hấp thu cùng chất béo.
3.5. Lưu ý về đọc hàm lượng Omega-3 trên bao bì sản phẩm bổ sung.
Trong một sản phẩm dầu cá điển hình, chỉ có một phần ba tổng hàm lượng dầu thực sự là Omega-3. Người tiêu dùng cần phân biệt các khái niệm về dầu cá, Omega-3 và DHA/EPA có trên vỏ nhãn.
Mong rằng các lưu ý trên sẽ giúp các mẹ có thêm các kiến thức khi bổ sung Omega-3 trong thời kì mang thai của mình.
Chúc các mẹ có một thai kì khoẻ mạnh!
Nguồn : An care Pharma